Một số vấn đề về giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài thương mại thông qua Quy tắc trọng tài của VIAC.

Trọng tài thương mại là một phương thức đang được các doanh nghiệp sử dụng ngày càng phổ biến để giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại. So với tố tụng tòa án, tố tụng trọng tài có rất nhiều điểm khác biệt, hơn thế nữa, mỗi trung tâm trọng tài lại có các quy tắc tố tụng riêng. Do vậy, việc so sánh phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại và Tòa án sẽ mang đến một cách tiếp cận dễ dàng hơn những ưu, nhược điểm cụ thể của phương thức giải quyết tranh chấp này. Thông qua việc xem xét cụ thể quy tắc trọng tài của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) - một trung tâm trọng tài uy tín và nổi tiếng tại Việt Nam, Công ty Luật TNHH Brandco mong muốn đưa ra những lưu ý, khuyến nghị cho các doanh nghiệp, cá nhân khi tham gia giải quyết tranh chấp thương mại tại trung tâm trọng tài, đặc biệt tại VIAC.

  1. Một số điểm khác biệt giữa tố tụng trọng tài thương mại và tố tụng Tòa án

Trọng tài thương mại hay tố tụng Tòa án đều là những phương thức giải quyết tranh chấp được áp dụng trong kinh doanh thương mại. Cho dù lựa chọn phương thức nào, thỏa thuận của các bên trước và trong quá trình giải quyết tranh chấp cũng sẽ được cơ quan giải quyết tranh chấp tôn trọng trong phạm vi nhất định và quyết định cuối cùng tác động đến quyền, lợi ích của các bên đều được đưa ra trên cơ sở đảm bảo sự độc lập của người tài phán.

Tuy nhiên, giữa Trọng tài thương mại và tố tụng Tòa án có rất nhiều điểm khác biệt, tạo nên những đặc trưng và ưu, nhược điểm riêng của từng phương thức. Cụ thể:

Thứ nhất, về phạm vi giải quyết tranh chấp: Nếu như Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh chấp phát sinh trong xã hội, từ kinh doanh thương mại đến đất đai, hôn nhân gia đình, các tranh chấp dân sự khác, thì thẩm quyền của Trọng tài thương mại được giới hạn cụ thể tại Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, bao gồm: (1) Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; (2) tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; (3) tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.

Thứ hai, về trình tự, thủ tục: Thủ tục tố tụng của Trọng tài tuân thủ theo quy định của Luật Trọng tài thương mại và do các Trung tâm trọng tài tự xây dựng, ban hành. Trong khi đó, thủ tục tố tụng tại Tòa án nhân dân tuân thủ theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành. Xem xét Quy tắc của các Trung tâm trọng tài, rất dễ dàng nhận thấy, thủ tục tố tụng tại các Trung tâm trọng tài đơn giản, thuận tiện, linh hoạt hơn so với tố tụng tại Tòa án. Điều này sẽ được phân tích cụ thể hơn tại phần II, khi dẫn chiếu các quy tắc của VIAC.

Thứ ba, về hiệu lực của phán quyết: Bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án mang quyền lực Nhà nước và được đảm bảo thi hành bởi cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, tố tụng của Tòa án theo nguyên tắc trải qua nhiều cấp xét xử, do đó, Bản án do cấp sơ thẩm ban hành không có hiệu lực ngay, mà có thể bị kháng cáo bởi các đương sự hoặc kháng nghị bởi cơ quan/ cá nhân có thẩm quyền. Trong khi đó, Phán quyết trọng tài là chung thẩm. Việc khởi kiện yêu cầu tuyên hủy phán quyết trọng tài chỉ được thực hiện khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại 2010 bao gồm: (1) Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận vô hiệu; (2) Thành phần Hội đồng, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên hoặc trái luật; (3) Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng; (4) Phán quyết có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng; (5) Chứng cứ mà Hội đồng dùng làm căn cứ để ra phán quyết là giả mạo; (6) Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết; (7) Phán quyết trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Thứ tư, về việc đảm bảo bí mật thông tin: Việc xét xử tại Trọng tài thương mại được đảm bảo bí mật, thành phần tham dự chỉ bao gồm Hội đồng trọng tài, nguyên đơn, bị đơn và các thành phần khác được Hội đồng trọng tài cho phép như người làm chứng, giám định viên, chuyên gia… Những đối tượng không liên quan đến việc giải quyết tranh chấp không được tham gia, có mặt tại phiên họp giải quyết tranh chấp. Trong khi đó, các phiên xét xử giải quyết tranh chấp tại Tòa án được tổ chức công khai, bất kỳ ai cũng có thể xem xét, theo dõi toàn bộ quá trình hỏi đáp, tranh luận của các bên, cũng như tuyên án của Hội đồng xét xử.

Như vậy, với những so sánh cơ bản nêu trên, có thể nhận thấy các ưu điểm của việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp trọng tài thương mại so với Tòa án đó là:

  • Thủ tục đơn giản, nhanh chóng hơn, giúp cho các bên chủ động được thời gian, địa điểm xét xử.
  • Không trải qua nhiều cấp xét xử, hạn chế những tốn kém về thời gian, công sức và tiền bạc cho doanh nghiệp.
  • Đảm bảo được các bí mật kinh doanh, bảo vệ được uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.

Tuy nhiên, một rào cản cũng chính là nhược điểm của phương thức trọng tài thương mại so với Tòa án đó là vấn đề chi phí. Chi phí để tham gia tố tụng trọng tài thường cao hơn nhiều so với Tòa án.

Ngoài ra, do không có quyền lực của một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, trong quá trình giải quyết, Trọng tài viên có thể gặp nhiều khó khăn trong việc xác minh thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng…

Cuối cùng, phán quyết của trọng tài có thể bị các bên yêu cầu Tòa án xem xét lại và có thể bị tuyên hủy khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại 2010.

  1. Một số vấn đề cần lưu ý trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC)

Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (sau đây gọi là “Quy tắc”) hiện hành có hiệu lực bắt đầu từ ngày 01 tháng 03 năm 2017 với 38 điều. Theo Quy tắc này, các quy trình tố tụng trọng tài chính bao gồm: (1) nguyên đơn nộp đơn khởi kiện; (2) bị đơn nộp bản tự bảo vệ, đơn kiện lại (nếu có); (3) thành lập Hội đồng trọng tài; (4) Hội đồng trọng tài nghiên cứu vụ việc; (5) phiên họp giải quyết vụ tranh chấp; (6) công bố phán quyết trọng tài. Quy trình này rất đơn giản để các bên có thể nắm bắt và tiếp cận thực hiện. Tuy vậy, trong từng quy tắc, có những vấn đề cần được lưu ý, để đảm bảo quyền lợi của đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp.

Thứ nhất, về việc gửi thông báo, tài liệu: Theo khoản 1 Điều 3 của Quy tắc: “Thông báo, tài liệu do một bên gửi tới Trung tâm phải đủ số bản để Trung tâm gửi tới thành viên của Hội đồng Trọng tài mỗi người một bản, tới bên kia một bản và lưu một bản”. Như vậy, số lượng hồ sơ mà các bên nộp cho Trung tâm trọng tài cần tối thiểu 05 bản (trừ trường hợp theo thủ tục rút gọn), mà không phải là 01 bản duy nhất như khi nộp cho Tòa án.

Thứ hai, về việc nộp đơn khởi kiện:

Theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Quy tắc, đơn khởi kiện phải có các nội dung như sau: “a) Ngày, tháng, năm làm Đơn khởi kiện;

  1. b) Tên, địa chỉ của các bên;
  2. c) Tóm tắt nội dung của vụ tranh chấp;
  3. d) Cơ sở khởi kiện;

đ) Trị giá của vụ tranh chấp và các yêu cầu khởi kiện khác của Nguyên đơn;

  1. e) Tên của người được Nguyên đơn chọn làm Trọng tài viên hoặc yêu cầu Trung tâm chỉ định Trọng tài viên theo quy định tại khoản 1 Điều 12 hoặc Điều 13 của Quy tắc này;
  2. g) Chữ ký của người đại diện theo pháp luật hoặc của người đại diện theo ủy quyền trong trường hợp Nguyên đơn là tổ chức; chữ ký của cá nhân hoặc của người đại diện theo ủy quyền trong trường hợp Nguyên đơn là cá nhân”.

So sánh với quy định tại Khoản 4 Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nhận thấy ngay từ Đơn khởi kiện, theo Quy tắc, nguyên đơn cần làm rõ được cơ sở khởi kiện (căn cứ quy định trong hợp đồng, các văn bản trao đổi, thực tiễn thực hiện công việc, quy định pháp luật liên quan) – trong khi Đơn khởi kiện nộp cho Tòa án không nhất thiết phải làm rõ được nội dung này. Ngoài ra, tại Đơn khởi kiện nguyên đơn phải xác định được trị giá của vụ tranh chấp để làm cơ sở tính phí trọng tài.

Một vấn đề cần đặc biệt lưu ý đó là việc sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện/ đơn kiện lại. Khoản 2 Điều 14 Quy tắc quy định: “Các bên có thể sửa đổi, bổ sung Đơn khởi kiện, Đơn kiện lại, Bản tự bảo vệ và Bản tự bảo vệ đối với Đơn kiện lại trước thời điểm kết thúc phiên họp cuối cùng giải quyết vụ tranh chấp”. Tuy vậy, trên thực tế, trong các thông báo của Trung tâm trọng tài gửi đến các bên về việc tham gia phiên họp, không có nội dung xác định “phiên họp cuối cùng”. Việc xác định khi nào là phiên họp cuối cùng hoàn toàn phụ thuộc vào tiến trình xử lý vụ việc. Khoản 4 Điều 25 Quy tắc quy định: “Tại phiên họp giải quyết vụ tranh chấp, nếu thấy các bên không còn bất kỳ tài liệu hoặc chứng cứ có liên quan nào để cung cấp, Hội đồng Trọng tài tuyên bố phiên họp giải quyết vụ tranh chấp này là phiên họp cuối cùng”. Do vậy, các bên cần lưu ý xác định đúng đắn về phiên họp cuối cùng để bảo vệ được quyền sửa đổi, bổ sung yêu cầu của mình.

Thứ ba, về việc lựa chọn Trọng tài viên và Hội đồng trọng tài:

Nếu như trong tố tụng tại Tòa án, Hội đồng xét xử bao gồm các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân hoàn toàn do Chánh án hoặc người có thẩm quyền khác phân công đối với từng vụ việc, thì với tố tụng trọng tài, quyền lựa chọn người xét xử vụ việc của mình hoàn toàn phụ thuộc vào các bên tham gia giải quyết tranh chấp.

Quyền lựa chọn Trọng tài viên được thực hiện ngay từ khi một bên nộp Đơn khởi kiện. Đây cũng là một trong những nội dung bắt buộc phải có trong Đơn khởi kiện/ Đơn kiện lại. Theo quy định tại Điều 12 Quy tắc, trong trường hợp thành lập Hội đồng trọng tài gồm ba Trọng tài viên, nguyên đơn và bị đơn mỗi bên có quyền lựa chọn 01 Trọng tài viên, sau đó, hai Trọng tài viên được chọn sẽ bầu người thứ ba làm Chủ tịch Hội đồng. Lựa chọn Trọng tài viên của một bên phải được bên còn lại và Trung tâm trọng tài tôn trọng, công nhận, trừ trường hợp Trọng tài viên được chọn thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 16 Quy tắc như: là người thân thích hoặc đại diện của một bên; có lợi ích liên quan trong vụ tranh chấp; có căn cứ rõ ràng cho thấy Trọng tài viên không vô tư, độc lập, khách quan; không đáp ứng tiêu chuẩn cụ thể mà các bên đã thỏa thuận; không đáp ứng tiêu chuẩn Trọng tài viên theo quy định pháp luật; đã là hòa giải viên, người đại diện, luật sư của bất kỳ bên nào trong chính vụ tranh chấp đang được đưa ra giải quyết tại Trung tâm, trừ khi các bên có chấp thuận bằng văn bản. Quyền lựa chọn Trọng tài viên mang đến rất nhiều lợi ích cho các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp, do vậy, các bên cần triệt để khai thác, tận dụng được quyền lợi này.

Thứ tư, về địa điểm và ngôn ngữ trọng tài: Theo quy định tại Điều 22, Điều 23 Quy tắc, với các vụ việc có yếu tố nước ngoài, địa điểm và ngôn ngữ trọng tài trước hết do các bên thỏa thuận. Thỏa thuận này có thể được hình thành trước khi xảy ra tranh chấp, cũng có thể là trong quá trình tố tụng trọng tài. Trong trường hợp không có thỏa thuận thì Hội đồng Trọng tài quyết định địa điểm trọng tài mà Hội đồng Trọng tài cho là phù hợp và quyết định ngôn ngữ hoặc các ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài, có tính đến các yếu tố có liên quan bao gồm ngôn ngữ của hợp đồng. Việc lựa chọn được địa điểm và ngôn ngữ hợp lý sẽ giúp cho các bên tiết kiệm được rất nhiều thời gian và công sức.

Thứ năm, về phiên họp giải quyết tranh chấp: Như đã phân tích tại phần I, phiên họp giải quyết tranh chấp giữa các bên sẽ không được công khai, trừ khi các bên có thỏa thuận khác (khoản 3 Điều 25 Quy tắc). Đặc biệt, “Hội đồng Trọng tài có thể tiến hành phiên họp giải quyết vụ tranh chấp bằng hình thức teleconference, video-conference hoặc các hình thức thích hợp khác nếu các bên có thỏa thuận” (khoản 1 Điều 25). Quy định này là vô cùng phù hợp trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đang hạn chế sự di chuyển, đi lại của trong và ngoài nước, giúp cho việc giải quyết tranh chấp được tiến hành thông suốt, không bị cản trở bởi lý do địa lý và các trường hợp khó khăn khác; đồng thời tiết kiệm chi phí cho các bên trong giải quyết tranh chấp.

Ngoài ra, khác với các quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, đương sự có thể vắng mặt khi phiên tòa xét xử lần đầu được tổ chức dù đã được triệu tập hợp lệ mà không bị ảnh hưởng bất kỳ quyền lợi nào, Quy tắc tố tụng trọng tài không cho phép các bên tham gia giải quyết tranh chấp được tự ý vắng mặt. Theo quy định tại Điều 27 Quy tắc, nếu nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt, không được Hội đồng trọng tài chấp thuận lý do thì được coi là rút đơn khởi kiện, trường hợp này Hội đồng trọng tài chỉ tiếp tục giải quyết tranh chấp khi bị đơn có yêu cầu hoặc Đơn kiện lại. Ngược lại, nếu bị đơn được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt, không được Hội đồng trọng tài chấp thuận lý do, thì Hội đồng Trọng tài vẫn tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp căn cứ vào tài liệu, chứng cứ hiện có. Nếu bị đơn có Đơn kiện lại mà vắng mặt thì được coi là đã rút đơn kiện lại, Hội đồng Trọng tài chỉ tiếp tục giải quyết Đơn kiện lại khi Nguyên đơn có yêu cầu. Trong trường hợp có lý do chính đáng thì phải có văn bản thông báo cho Hội đồng trọng tài và bắt buộc phải nộp được kèm chứng cứ chứng minh. Quy định trên giúp cho quá trình tố tụng trọng tài diễn ra nhanh chóng hơn, hạn chế việc cố ý kéo dài thời gian của các bên tham gia giải quyết tranh chấp.

  • Một số khuyến nghị chung đối với các tổ chức/ cá nhân khi tham gia giải quyết tranh chấp theo phương thức tố tụng trọng tài

Trên cơ sở phân tích các ưu, nhược điểm của phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại và sự xem xét cụ thể đối với quy tắc tố tụng của VIAC, Brandco đưa ra một số khuyến nghị đối với các tổ chức, cá nhân khi tham gia giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại như sau:

Thứ nhất, về thỏa thuận trọng tài: Để vụ việc có thể được giải quyết nhanh chóng bởi một Trung tâm trọng tài, trước hết, ngay từ trong quá trình thỏa thuận giao kết hợp đồng, các bên cần xác lập sẵn điều khoản trọng tài. Điều khoản trọng tài nên cụ thể, rõ ràng, tránh gây hiểu nhầm và tránh những trường hợp thỏa thuận bị vô hiệu theo quy định của Luật trọng tài thương mại và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Thỏa thuận trọng tài càng chi tiết càng tiết kiệm được thời gian cho các bên trong quá trình giải quyết sau này, có thể chi tiết từ Trung tâm trọng tài, tiêu chuẩn của Trọng tài viên, địa điểm trọng tài, ngôn ngữ trọng tài…

Thứ hai, về việc lựa chọn Trọng tài viên: Các bên tham gia tố tụng cần chủ động lựa chọn Trọng tài viên, thông qua việc nghiên cứu kỹ bản chất của vụ tranh chấp và các vấn đề có liên quan như ngôn ngữ trọng tài, luật áp dụng để chọn Trọng tài viên phù hợp, đặc biệt lưu ý đến vấn đề lĩnh vực chuyên môn, địa điểm cư trú, khả năng ngoại ngữ của Trọng tài viên. Khi đã lựa chọn được Trọng tài viên phù hợp, có thể chủ động liên hệ trước với Trọng tài viên, để đề phòng trường hợp Trọng tài viên vì các lý do cá nhân hoặc đã và đang tham gia giải quyết quá nhiều vụ việc khác, không thể tham gia trong vụ việc này, dẫn đến việc bị động trong việc lựa chọn Trọng tài viên ở giai đoạn sau này.

Thứ ba, về việc chuẩn bị chi phí để tham gia tố tụng trọng tài: Các bên có thể tham khảo chi phí ban đầu theo công thức được đăng tải công khai trên website của các Trung tâm trọng tài. Tuy nhiên, lưu ý rằng, ngoài chi phí theo giá trị tranh chấp đã được xác định ngay tại thời điểm nộp Đơn khởi kiện/ Đơn kiện lại, trong quá trình giải quyết tranh chấp còn phát sinh các chi phí liên quan đến việc đi lại, ở của các Trọng tài viên, chi phí giám định, chi phí tham vấn ý kiến chuyên gia… Nếu bên có yêu cầu, được Hội đồng Trọng tài chỉ định nộp chi phí mà không có đủ khả năng tài chính để nộp trong thời hạn yêu cầu, vụ việc có thể bị tạm dừng giải quyết. Do vậy, lời khuyên cho các bên khi tham gia tố tụng trọng tài là luôn luôn phải dự liệu trước các chi phí có thể phát sinh và sẵn sàng cho các khoản chi này.

Thứ tư, về việc tham dự các phiên họp giải quyết tranh chấp: Khi sử dụng phương thức trọng tài, các bên cần thiết tham dự đầy đủ các phiên họp, bởi vì ngay từ lần vắng mặt đầu tiên mà không có lý do chính đáng, quyền lợi của các bên sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trong trường hợp có lý do chính đáng không thể tham dự được phiên họp, các bên cần thu thập đầy đủ các chứng cứ khách quan để chứng minh, ví dụ như hồ sơ cấp cứu tại bệnh viện… để nộp cho Hội đồng trọng tài. Trong trường hợp mặc dù là lý do chính đáng nhưng không thể chứng minh, các bên có thể ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia phiên họp.

           

Với những ưu điểm vượt trội, đặc biệt trong giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế, Trọng tài thương mại đang ngày càng được các tổ chức, doanh nghiệp lựa chọn nhiều hơn ngay từ quá trình thỏa thuận, giao kết hợp đồng giao dịch. Brandco hi vọng rằng, với những phân tích và khuyến nghị nêu trên, sẽ giúp cho các tổ chức/ cá nhân hiểu rõ hơn về phương thức giải quyết tranh chấp này, chủ động tận dụng tất cả những yếu tố linh hoạt, điểm có lợi, để tối ưu hóa chi phí và thời gian, công sức, bảo vệ được tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong các tranh chấp.

share this post